Trang

Thứ Năm, 9 tháng 8, 2012

БОРИС И ТАНЯ - 3

Rạp xi nê và nhà hát

Tặng N.Đ.T. nhân ngày sinh nhật 9/8 và các bạn học cũ ở Leningrad một thuở.
Cảm ơn bạn Hà Linh đã giúp để có phần lời tiếng Nhật và một đường link chất lượng của bài hát giới thiệu trong bài này.

Ảnh minh hoạ: Internet.
Nàng Tanhia của chàng Boris rất hào hứng kể những phim hay mà nàng đã xem. Đôi lúc không hiểu hết nghĩa của câu chuyện nàng kể, mặt chàng Boris có vẻ như nghệt ra. Vài lần như vậy là nàng giảm độ nhiệt tình kể chuyện và rồi biết rút kinh nghiệm nhắc lại ngay những chỗ đoạn đó cho chàng được rõ. Chàng ngày một tiến bộ hơn khi trao đổi hàng ngày bằng ngôn ngữ sinh viên với nàng. Nàng tò mò hỏi, thế khi trên bục hội trường ngày khai giảng, sao phát biểu hùng hồn thế? Chàng đỏ mặt cười chống chế, à là có tờ giấy viết sẵn cứ thê mà liếc đọc thôi. 
Để trả ơn “thầy Tanhia” đã có công phụ đạo tiếng Nga, chàng thỉnh thoảng chiêu đãi nàng bằng các buổi xem phim hay vào các nhà hát, cung văn hoá đổi “món ăn” tinh thần.
Vào rạp xem phim còn đỡ, chứ đến nhà hát, cung văn hoá nhiều khi cũng ngại. Tuy mang danh học sinh miền Nam được cấp học bổng cao hơn các du học sinh miền Bắc 10 rúp, lại cũng có vẻ biết sắm sanh và “trang điểm”, ví dụ mua vải về tự may quần loe kiểu Đức hoặc Hà Lan, để tóc dài kiểu Thuỵ Điển, nhưng đến những chỗ này cũng phải ăn mặt cho tươm tất một chút. Chi tiêu gì gì cũng chỉ dựa vào học bổng, muốn sắm sanh lớn là phải đi làm thợ ở các nhà máy (завод) bất kể được nghỉ hè hay đang nghỉ đông. Nàng Tanhia chắc con nhà nghèo hay “trên nghèo” một tý nên cũng biết ý, không nhõng nhẽo để bắt chàng phải mua cái gì đó như các cô gái ngày nay. Vào rạp hay nhà hát mà ngồi suông là đâu có được. Phải có cái cầm tay ăn hoặc uống và chàng chỉ dám ga lăng cỡ đó thôi.

Các nhà hát, rạp chiếu bóng ở Saint Petersburg
Nhóm các nhà hát kịch nói: có 51
Nhà hát lớn về kịch hàn lâm quốc gia Nga mang tên G.A. Tovstonogov (Российский государственный академический Большой драматический театр имени Г. А. Товстоногова)
Địa chỉ: набережная реки Фонтанки, 65.
Năm mở cửa: 1919                       

Nhóm các nhà hát Opera và ba lê: 12
Nhà hát Mariin (Мариинский театр)
Địa chỉ: Театральная площадь, 1  
Năm mở cửa: 1783               




Nhóm các nhà hát ca nhạc (Музыкальные театры): 11
Cung hoà nhạc St Petersburg (Санкт-Петербургский Мюзик-холл)
Địa chỉ: Александровский парк, 4               
Năm mở cửa: 1966                                                                                   

Nhóm các nhà hát múa rối (Театры кукол): 9
Nhà hát Múa rối kể chuyện (Кукольный театр сказки)         
Địa chỉ: Московский проспект, 121     
Năm mở cửa: 1944                             



Nhóm các nhà hát thể loại khác (Театры других жанров): 10
Nhà hát Litxeday (Театр «Лицедеи»)                  
Địa chỉ: улица Льва Толстого, 9                                                  
Năm mở cửa: 1978                                                                      


Nhóm các quảng trường nhà hát và sân khấu hoà nhạc (Театральные и концертные площадки): 22
Cung văn hoá A.M. Goocki (Дворец культуры имени А. М. Горького)              
Địa chỉ: площадь Стачек, 4                                    
Năm mở cửa: 1927                         



Các rạp chiếu phim
Mạng lưới Rạp chiếu phim caro (Сеть кинотеатров Каро фильм): có 5
                   

Rạp chiếu phim cao điểm (Киноцентр Пик): 1

Công viên chiếu bóng (Синема Парк): 1

Rạp Ranh giới mới (Киноцентр Новый Рубеж): 1

Trung tâm phim thử nghiệm (Киноцентр Пилот): 1

Nhà chiếu bóng (Дом Кино): 1

Rạp Đỉnh cao (Зенит): 1

Rạp Đèn pha (Автомобильный кинотеатр Фара): 1


Phim Mùa tình yêu
(tiếng Nhật: Koi no kisetsu, tiếng Nga: Сезон любви)
Sản xuất năm 1969
Đạo diễn Umesugu Inoe
Kịch bản Jasu Tanami
Các vai chính: Yoko Kon, George Hamano, Luis Tanako, Kensaku Morita, Jasunori Irikava.
Độ dài phim 88 phút
Số lượt người xem 27,6 triệu

Tóm tắt nội dung và nhận xét phim
Một cô gái trẻ Yoko, học xong phổ thông, lạ lẫm với cuộc sống, nhưng tự cảm thấy đủ tuổi để đưa ra quyết định đến với disco và tình yêu. Xuất hiện một nam sinh viên tốt bụng, người mà cô rất thích ngay từ lần gặp tình cờ, tuy nhiều tuổi hơn cô. Đó là ông Kưrôkawa. Cô gái ngây thơ và tinh khiết. Kưrôkawa cố gắng để giành được cô về mình. Ông có kinh nghiệm, hiểu biết tình yêu, đã từng làm tan nát không phải một trái tim. Vì sự nghiệp, ông đã hứa hôn với con gái của sếp mình...
Đây là một phim hồi tưởng có tác động thành công lớn đến cả một thế hệ đầu những năm 70 đã được chiếu trong các rạp của Liên Xô. Từ Kuril đến Carpat, các rạp phim của Liên Xô tràn đầy nước mắt. 
Các yểu điệu thục nữ cộng Việt nhà mình cũng không ngoại lệ. Các nàng còn rủ các chàng cả trẻ, cả già xem đi xem lại. Không có lần nào thoát khỏi cảnh sụt sùi nước mắt. Nàng Tanhia của chàng Boris biết chuyện, cười, các bạn nữ Việt Nam dễ thương nhỉ. Một anh già công Việt, cựu thanh niên xung phong, có vợ con rồi, học cùng trường, dám bỏ học để đi xem phim này dễ đến 3 hay 4 lần gì đó. “Máu” chưa?
Trong phim có sự tham gia của ban nhạc nổi tiếng Nhật Bản "Pinky & Killers".
"Mặt trời hoàng hôn xa.
Tiếng gầm sóng v bờ.
Giấc mơ thật sự đến
Một mùa của tình yêu..."
Sau đây là lược trích ý kiến của một số khán giả người Nga về phim Mùa tình yêu:
Sau khi xem phim, âm hưởng bài hát của Pinky & Killers vẫn còn đọng trong đầu tôi. Nó cứ cuồn cuộn trong đầu tôi, dễ làm tôi bị ám ảnh. Nhớ các cảnh phim, tình yêu đầu tiên của nữ nhân vật chính, nàng nhảy múa trên bãi biển...
“Hình ảnh trong phim có sức quyến rũ, thú vị thời đại những năm 60, phim thường lãng mạn và không phức tạp, nhưng gợi cảm và gần gũi hơn với trái tim. Tôi giữ nguyên ý kiến của mình như vậy. Các diễn viên không đóng vai, mà nhập vai sống động, âm nhạc sâu lắng, kịch bản rõ ràng và dễ hiểu đối với người xem. 50 năm trước và bây giờ cũng vâỵ, người ta yêu nhau, rồi tan nát, đau khổ và rồi lại yêu lần  nữa!
“Bộ phim lôi cuốn nhiều khán giả lớn tuổi – đối tượng yêu thích âm nhạc truyền cảm”.
Đối với công chúng Liên Xô thời đó, một bộ phim nước ngoài được yêu thích như phim này là một sự kiện quan trọng. Nó lúc đầu hấp dẫn các bâc phụ huynh, sau đó với học sinh phổ thông, rồi đến sinh viên. 27.000.000 lượt người xem đã chứng tỏ sự thành công của bộ phim này trên đất nước LX”.
Tôi nhớ rằng chúng tôi đã xem hàng chục lần. Tôi đã phải nhịn bữa ăn trưa tại trường để có tiền đi xem. Nhiều năm rồi nhưng bộ phim không lỗi thời và không làm mất nét duyên dáng của nó, vì câu chuyện tình yêu vĩnh cửu, một diễn viên xinh đẹp và ban nhạc chơi quyến rũ”.

Bài hát trong phim

Trình bày:  Ban nhạc 恋の季節 - Pinky & Killers
Ca sỹ hát chính Yoko Kon, bí danh Pinky, sau này chuyển sang đóng phim nhiều hơn.

Xem Video clip 1 Pinky & Killers - Cold Season of Love

Xem Audio clip thứ 2  Pinky& the killers - koi no kisetsu

Xem Video clip thứ 3 Сезон Любви 1

Xem Video clip thứ 4 Сезон любви 2

Xem Video clip thứ 5 ピンキーとキラーズ「恋の季節


Lời tiếng Nhật: (Hà Linh ghi theo video clip)

忘れられないの
あの人が好きよ
青いシャツ着てさ
海を見てたわ
私ははだしで
小さな貝の舟
浮かべて泣いたの
わけもないのに
恋は 私の恋は
空を染めて 燃えたよ
死ぬまで私を
ひとりにしないと
あの人が云った
恋の季節よ

ルルル……

恋は 私の恋は
空を染めて 燃えたよ
夜明けのコーヒー
ふたりで飲もうと
あの人が云った
恋の季節よ

恋は 私の恋は
空を染めて 燃えたよ
夜明けのコーヒー
ふたりで飲もうと
あの人が云った
恋の季節よ
恋の季節よ 恋の季節

Lời phiên âm tiếng Nhật: (từ Internet)
wasurerarenai no
ano hito ga suki yo
aoi shatsu kite sa
umi wo miteta wa
watashi ha hadashi de
chiisana kai no fune
ukabete naita no
wakemonai no ni
koi ha watashi no koi ha
sora wo somete moeta yo
shinu made watashi wo
hitori ni shinai to
ano hito ga itta
koi no kisetsu yo

Lời dịch tiếng Anh: (từ Internet)
I can't forget
I love this man
He was wearing a blue shirt
He was looking at the sea
I was barefoot
Little sea shell's boat floating
I cried
without any reason
Love, My love
Gave a burned color to the sky
Until I die
I'll never be alone
This man said
Love season

Lời dịch tiếng Nga, bản 1: (từ Internet)
Ветер морской под вечер стих,          
Молча смотрю я на залив,                  
Там повстречала я любовь,                
Грустную первую любовь.                  
С морем росла моя мечта-                 
Не разлюблю я никогда.                     
Пусть,что пришлось мне пострадать,-
Это судьбой буду считать.                 
Припев:
Время, счастье стерло время. Я вспоминаю сезон любви.    

Странно устроен мир земной -            
Мы полюбили, ты со мной,                 
Ну, кто виновен, счастья нет,              
Что же ты скажешь мне в ответ?         
Припев:
Время, счастье стерло время, я вспоминаю сезон любви.

Lời dịch tiếng Việt 1 từ bản dịch tiếng Nga 1, có tham khảo bản dịch tiếng Anh: (3CANG dịch)
Thơ chiều tà tả làn gió biển,
Em lặng thinh nhìn ra hướng vịnh,
Ở đó có mối tình của em,
Mối tình đầu ôi sao buồn bã.
Ước mơ em lớn từ biển cả -
Không bao giờ vỡ mộng vì anh.           
Cứ kệ cái gì đến sẽ đến -
Số phận em nó sẽ vậy mà.
Điệp khúc
Thời gian, hạnh phúc xoá thời gian. Em hồi tưởng mùa của tình yêu.

Kỳ diệu chưa trái đất sắp đặt -
Chúng tôi yêu, san sẻ cùng tôi,
Kẻ có tội sẽ không hạnh phúc,
Những gì nào anh trả lời em ?
Điệp khúc
Thời gian, hạnh phúc xoá thời gian. Em hồi tưởng mùa của tình yêu.

Lời dịch tiếng Nga, bản 2: (từ Internet)
Тёплый и солнечный день.      
Тихие волны бегут.
                 
Чувства как серая тень
           
Грусть и печаль несут
             

Море, скажи мне море:
                       
Откуда горе пришло ко мне?
  

Ты говорил о любви...
            
Так зачем же скажи
                 
Чувством моим ты играл,
       
Зная что мной был любим
      

Море, скажи мне море:
                       
Откуда горе пришло ко мне?
  


Lời dịch tiếng Việt 2 từ một bản dịch tiếng Nga bản 2: (3CANG dịch)
Một ngày nắng và ấm
Các cơn sóng dập dìu
Cảm giác màu u ám
Mang đến cả buồn đau

Biển ơi nói đi nào
Bất hạnh từ đâu đến ?

Anh thổ lộ tình yêu
Vì lẽ nào mà yêu
Hình như anh đang dối
Dù biết rằng em yêu

Biển ơi nói đi nào
Bất hạnh từ đâu đến ?
An Bường
(Nguồn tham khảo: ru.wikipedia.org, spbvideo.ru, youtube.com)
(Còn nữa…)

Xem thêm

БОРИС И ТАНЯ - 1